Bách Khoa Toàn Thư Lịch Sử Pdf
Đức Quốc xã hay Phát xít Đức là những tên tiếng Việt thường dùng để chỉ nước Đức thời kỳ 1933–1945. Cai trị đất nước này khi ấy là chế độ độc tài của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã (NSDAP). Dưới sự thống trị của Hitler, Đức đã nhanh chóng chuyển đổi thành một quốc gia toàn trị nơi mà chính quyền kiểm soát gần như mọi mặt của đời sống. Tên gọi chính thức của quốc gia này là Đế chế Đức (Deutsches Reich) từ 1933 đến 1943 và Đế chế Đại Đức (Großdeutsches Reich) từ 1943 đến 1945. Các tên gọi thông dụng khác (trong tiếng Đức) là Drittes Reich (Đệ Tam Đế chế hay Đế chế thứ Ba), Zeit des Nationalsozialismus (Thời kỳ Chủ nghĩa quốc gia xã hội, viết tắt là NS-Zeit), hay Tausendjähriges Reich (Đế chế Ngàn Năm) theo cách gọi của Hitler và những người quốc xã. Đức Quốc xã chấm dứt tồn tại vào tháng 5 năm 1945 sau khi bại trận trước phe Đồng minh, sự kiện đánh dấu hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ[sửa]
Vùng du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 8 tỉnh, thành phố: Thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch:
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 9 khu du lịch quốc gia; 7 điểm du lịch quốc gia và 4 đô thị du lịch.
Vùng du lịch vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch:
- Thành phố Đà Lạt gắn với hồ Tuyền Lâm, Đan Kia - Suối Vàng.
- Đắk Lắk gắn với vườn quốc gia Yokđôn và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
- Gia Lai - Kon Tum gắn với cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Măng Đen, Yaly.
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 4 khu du lịch quốc gia; 4 điểm du lịch quốc gia và 1 đô thị du lịch. Ngoài ra chú trọng phát triển du lịch tại các điểm như cụm di tích đèo An Khê, thành phố Buôn Mê Thuột và phụ cận...
Vùng du lịch vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm phát trỉển du lịch:
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 4 khu du lịch quốc gia; 5 điểm du lịch quốc gia và 1 đô thị du lịch. Ngoài ra chú trọng phát triển các điểm như: Thác Mơ - Bà Rá; Bình Châu, Phước Bửu, Núi Dinh.
Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc[sửa]
Vùng du lịch vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc gồm 11 tỉnh/thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng và Quảng Ninh.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch:
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 9 khu du lịch quốc gia; 8 điểm du lịch quốc gia và 2 đô thị du lịch. Ngoài ra cần chú trọng phát triển các điểm: Vườn quốc gia Xuân Thủy, Đồng Châu, Bạch Long Vĩ...
Vùng du lịch vùng Bắc Trung Bộ gồm 6 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm phát triển du lịch:
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 4 khu du lịch quốc gia; 6 điểm du lịch quốc gia và 3 đô thị du lịch. Ngoài ra, chú trọng phát triển các điểm hang cá Cẩm Lương, vườn quốc gia Bến En, vườn quốc gia Pù Mát, Chùa Hương, Cồn Cỏ...
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long[sửa]
Vùng du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh, thành phố: Thành phố Cần Thơ, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu Giang.
Hướng khai thác sản phẩm đặc trưng:
Các địa bàn trọng điểm du lịch:
Định hướng phát triển hệ thống khu, điểm, đô thị du lịch gồm 4 khu du lịch quốc gia; 7 điểm du lịch quốc gia. Ngoài ra, chú trọng phát triển các điểm như: Ba Động, Vĩnh Long.
Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên, một vị sử quan làm việc trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tông, biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới gồm 15 quyển, ghi lại lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 TCN đến năm 1427 khi nhà Hậu Lê được thành lập và mang tên Đại Việt sử ký toàn thư[2]. Sau đó, dù đã hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng niên hiệu Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê[2]. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê[2]. Bộ quốc sử này lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697[2].
Sau khi xuất bản, Đại Việt sử ký toàn thư tiếp tục được tái bản bởi các hiệu in của chính quyền và tư nhân, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới, trong nhiều thế kỷ sau. Nửa cuối thế kỷ 20, ở Việt Nam xuất hiện các bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư ra chữ quốc ngữ, phổ biến nhất là bản dịch dựa trên cơ sở bản in Nội các quan bản - hiện đang lưu giữ tại thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ ở Paris, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành lần đầu năm 1993.
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác nữa[3] và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam như Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục đều được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư
Cải lương trong các giai đoạn[sửa]
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nam Kỳ vừa chịu sự cai trị trực tiếp của Pháp, vừa chịu sự tác động, ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây (điển hình là nền văn hóa Pháp), xã hội Nam Kỳ biến đổi một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Sự ra đời của chữ quốc ngữ, báo chí, nhà in, những tác phẩm văn học… hình thành một đội ngũ trí thức Tây học, và những công chúng mang thị hiếu mới, tâm lý thưởng ngoạn cũng khác với những thời kỳ trước.
Song song với những tiếp xúc, ảnh hưởng văn hóa phương Tây ở lĩnh vực báo chí, văn học, ở địa hạt sân khấu cũng diễn ra quá trình tiếp biến. Sự ra đời của cải lương Nam Bộ đánh dấu sự kế thừa nghệ thuật sân khấu dân tộc và tiếp thu nền kịch nghệ phương Tây. Hát bội vốn là nghệ thuật thịnh hành có truyền thống ở Nam Bộ, nhưng trước những biến đổi xã hội, nghệ thuật hát bội mất dần vị thế. Một bộ phận tuồng cung đình mất đất diễn, những gánh hát diễn sang diễn tuồng dân gian ở những nơi công cộng. Hát bội có nội dung mới, diễn tuồng Tàu từ năm 1910 trở đi, tuồng Tàu phát triển mạnh, nhưng cả hai loại tuồng dân gian và tuồng Tàu vẫn chưa thể đáp ứng thị hiếu khán giả. Khán giả muốn sân khấu phải đổi mới, phải nói được tâm tư thời đại, nghệ thuật phải hướng đến cuộc sống hiện tại. Những tầng lớp khán giả thành thị đòi hỏi và đề xướng nhu cầu cải cách văn hóa, nghệ thuật trong đó có hát bội, cải cách âm nhạc và nội dung. Lương Khắc Ninh trong bài phát biểu đăng trên Nông Cổ Mín Đàm ngày 19/4/1917 (bài phát biểu được xem là Tuyên ngôn của nghệ thuật cải lương) “nay tôi tính hát thông thường, không kể Nam, không kể Khách gì, nên không kể đến nhạc. Hát tuồng Comede mà răn rời”. Ông đề xuất bỏ lối hát Nam, hát Khách vì không kể đến nhạc. Do đó họ đã chuyển dịch hai bài hát trên sang hình thức nói lối, nói mềm mỏng có giai điệu, hình thành hình thức nói lối sau này của cải lương. Hướng cải cách thứ hai là dùng tuồng hát để “răn đời”. Muốn “răn đời” thì phải thể hiện được hiện thực xã hội, nghĩa là mỗi bài ca phải có phần đặt lời cho một hình thức âm nhạc mới. Người nghệ sĩ, tác giả phải thực hiện hai công việc đổi mới: một là cải cách âm nhạc, hai là đặt lới có tính hiện thực xã hội, đáp ứng nhu cầu khan giả. Đó là những yêu cầu xã hội những năm 1919-1917, đây là sụ khởi đầu cải cách hát bội vào sân khấu cải lương, mang nội dung hiện thực đời sống.
Sân khấu cải lương ra đời trên cơ sở hình thành từ nghệ thuật đàn ca tài tử, những bản nhạc tài tử là những làn điệu cơ bản của ca nhạc cải lương sau này. Từ năm 1910-1914, ở Nam Bộ có những ban nhạc tài tử như Ban Ký Qườn (Vĩnh Long), Ban Tư Triều, Ban Hồng Triều (Mỹ Tho), Ban Ái Nghĩa (Cần Thơ), Ban Ba Chột (Bạc Liêu)… Các ban nhạc tài tử tiến lên ca ra bộ, ca ra bộ là trò diễn đầu tiên hình thành sân khấu cải lương.
Nam Bộ với hoàn cảnh của xứ thuộc địa chịu sự chi phối của thực dân Pháp, song lại mang đặc điểm của một không gian văn hóa mở, có sự giao lưu và tiếp xúc với văn hóa phương Tây sớm nhất. Điều này, phản ánh những chuyển biến trong đời sống văn hóa của con người Nam Bộ một cách đáng kể. Và cũng chính những tiếp biến văn hóa, những chuyển biến xã hội đã cho ra đời nghệ thuật cải lương nhằm đáp ứng những cải cách văn hóa và tâm lý thưởng ngoạn của công chúng đương thời.
Từ 1917 đến 1920 được xem là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật cải lương ở Nam Bộ. Bài diễn thuyết Hí nghệ cải lương của Lương Khắc Ninh tại nhà Hội Khuyến học ngày 28 tháng 3 năm 1917 được xem là tuyên ngôn của sân khấu nghệ thuật cải lương trong chặng đường đầu tiên. Vào giữa năm 1920, gánh Tân Thinh được thành lập có quy mô ở Sài Gòn, tại đường Boresse (nay là đường Yersin, phường Nguyễn Thái Bình, quận I). Chủ nhân của gánh là Trương Văn Thông, nguyên quán Sa Đéc. Tân Thinh diễn vở Bạch Tuyết kiên trinh (1920) treo bảng hiệu Đoàn hát cải lương cùng hai câu liễn nêu tôn chỉ của đoàn:
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh.
Lâm Hoài Nghĩa và Nguyễn Quốc Biểu là tác giả hai câu liễn, và chính là soạn giả của đoàn Tân Thinh. Nội dung câu liễn của đoàn hát Tân Thinh không chỉ thể hiện tôn chỉ của đoàn mà còn thể hiện ý nghĩa, định hướng của sân khấu cải lương.
Giai đoạn đầu, các tác giả mặc dù không được đào tạo trường lớp nhưng bản thân họ đã tự mài mò sáng tạo trong cách xây dựng kịch bản. Nội dung kịch bản cải lương phổ biến ở ba hướng chính: một là chuyển thể từ những tác phẩm văn học, truyện thơ, truyện dài, tiểu thuyết; hai là phóng tác theo truyện dân gian, thần thoại, dã sử; ba là sáng tác kịch bản có tính hiện thực xã hội, tố cáo chế độ phong kiến, tư sản, những tệ thói hủ tục… Nghệ thuật cải lương giai đoạn này hình thành hai phong cách sân khấu trên hai hướng đề tài. Phong cách cải lương cổ tương ứng với những vở diễn cổ, thần thoại, dã sử… sân khấu với những nhân vật mũ cao, áo dài đứng trên sân khấu hoành tráng, lộng lẫy. Phong cách cải lương đương đại tương ứng với những vở diễn phản ánh hiện thực xã hội, tâm lý con người. Sân khấu với những cảnh trí dân dã tái hiện vùng quê sông nước Nam Bộ, con người mộc mạc nghĩa tình mang đến cho cư dân Nam Bộ sức hấp dẫn rất lớn, hướng đến thị hiếu tìm sự mới mẻ, đổi mới.
Giai đoạn từ 1920 đến 1945 là giai đoạn phát triển mạnh. Phong trào cải lương thời kỳ này phát triển rầm rộ ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Sài Gòn. Ở Bến Tre, Mỹ Tho có ban hát Sĩ Đông Du, Tiểu Học ban, Như Thủy ban, Tập Ích ban, Văn Hí ban… Từ năm 1935, giai đoạn phục hưng của cải lương, có đến trên ba trăm vở chuyển thể từ tác phẩm kiếm hiệp, trinh thám, tiểu thuyết của soạn giả Mộng Vân, do những gánh biểu diễn của Mộng Vân, Tân Xuân, Nam Thành, Nhạn trắng, Hữu Thành…biểu diễn. Tính từ năm 1940-1945 toàn Nam Bộ có khoảng 67 ban hát cải lương.
Từ 1945 đến 1954 là giai đoạn nghệ thuật cải lương tồn tại và phát triển theo hai dòng chính: cải lương cách mạng kháng chiến và cải lương vùng tạm chiếm. Với dòng cải lương vùng tạm chiếm chủ yếu diễn các vở cải lương tuồng Tàu, Tây hoặc những vở xã hội mang đậm tính ủy mị, sướt mướt. Năm 1945 – 1948, phong trào cải lương cách mạng chủ yếu mang phong cách dân tộc, truyền thống, ca ngợi hình tượng thanh niên xung phong, nông dân, phụ nữ trí thức theo kháng chiến. Từ 1955 đến 1975, cải lương bước vào giai đoạn tiếp nối truyền thống dòng cải lương cách mạng kháng chiến, khẳng định vị thế trong lòng khán giả Nam Bộ. Những đoàn văn công giải phóng dựng những vở cải lương theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, viết về đề tài con người mới có tinh thần chiến đấu. Từ 1985 đến nay, cải lương đối mặt với những thách thức của thời đại, cải lương mất dần vị trí độc tôn trong lòng khán giả Nam Bộ và đi vào giai đoạn suy thoái.
Cấu trúc tác phẩm nghệ thuật cải lương là chỉnh thể tổng hòa của kịch, ca nhạc, phục trang, hóa trang, thiết kế sân khấu và đạo cụ. Ngôn ngữ sân khấu cải lương được tạo nên từ sự tổng hợp các yếu tố âm nhạc, diễn, nói, vũ đạo… Trong đó, kịch là một trong những thành tố nghệ thuật quan trọng bậc nhất và được kể đến đầu tiên trong cấu trúc nghệ thuật. Xây dựng một kịch bản cải lương với nội dung hoàn chỉnh được phân chia thành nhiều màn - hồi (mỗi màn - hồi có thể có nhiều phân cảnh). Màn - hồi của vở diễn được xây dựng trên cơ sở diễn trình của hành động kịch. Hành động kịch của một vở cải lương thường triển khai qua ba bước: Khai đề - Thắt nút – Mở nút (Nguyên nhân – Phát triển – Kết quả). Phương thức xây dựng hành động kịch của cải lương cũng rất gần với thể loại kịch cổ điển phương Tây.
Đề tài và nội dung kịch bản có ý nghĩa quy định hình thức sân khấu cải lương. Trong lịch sử hình thành và phát triển, sân khấu cải lương thường được chia thành hai dòng sân khấu lớn: Dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu còn được gọi là cải lương tuồng cổ. Dòng sân khấu cải lương tuồng Tây (còn gọi là cải lương tuồng hương xa): diễn những vở phóng tác theo tác phẩm của Pháp, Anh hay những tuồng xã hội có cốt truyện Việt Nam. Tùy theo đề tài, cốt truyện mà người soạn giả kiêm đạo diễn (buổi đầu gọi là thầy tuồng) quy định loại hình biểu diễn sân khấu theo dòng tuồng Tàu hay tuồng Tây.
Cải lương Nam Bộ vốn là sân khấu tả thực thuộc loại hình ca kịch, vì thế yếu tố vũ trong kịch bản không rõ nét so với yếu tố kịch và ca. Thông thường, yếu tố vũ trong những tuồng Tàu thể hiện rõ hơn những vở tuồng Tây và tuồng xã hội. Trong kịch bản cải lương yếu tố kịch và ca chiếm một vị thế chủ lực và luôn luôn là sự phối hợp nhịp nhàng và ăn ý. Mỗi thể giọng, làn hơi, phản ánh cung bậc tình cảm nhất định, mỗi bài ca được người nghệ sĩ cất lên ứng với hoàn cảnh kịch đang diễn ra. Người khán giả xem cải lương mang tâm lý thưởng ngoạn vừa để biết về một câu chuyện (phần kịch) vừa nghe (phần ca nhạc) với những bài ca thấu tình và hơn cả là những bài vọng cổ thật mùi mẫn. Sự kết hợp giữa ca – kịch trong kịch bản cải lương cho ta nhận diện – người soạn giả vừa là nghệ sĩ vừa là nhạc sĩ.
Khi nói đến thành tố ca nhạc trong cải lương, các nghệ nhân luôn đề cao vai trò của bài bản và làn điệu. Bài bản là những bài nhạc có văn bản như những bản nhạc Bắc, bản nhạc lễ cung đình Huế, bản nhạc Tàu… Làn điệu là tên gọi các điệu trong ca nhạc cải lương như giọng Bắc, giọng Nam, giọng Oán, giọng Quảng, giọng tân nhạc… điệu cải lương phong phú hơn cả hát bội, ngoài ba giọng chính là: giọng Bắc, giọng Oán, giọng Nam; còn có vọng cổ, điệu lý, giọng bình, giọng ngâm, điệu hò, nói thơ, thán, giọng Quảng và giọng tân nhạc. Bài bản và làn điệu có vai trò quyết định đối với một tác phẩm sân khấu cải lương. Nói cách khác, bài bản và làn điệu là nền tảng hình thành kịch bản cải lương. Sự kết hợp ăn ý giữa bài bản và làn điệu mang lại hiệu quả sân khấu trong cách diễn tả tình cảm nhân vật và hành động nhân vật. Bên cạnh bài bản, làn điệu thành tố ca nhạc trong nghệ thuật cải lương còn có sự hỗ trợ của hệ thống nhạc cụ. Nhạc cụ cải lương gồm bộ dây và bộ hơi. Âm nhạc trong nghệ thuật cải lương mang tính trữ tình, hơi nhẹ nhàng vì thế chủ yếu dùng đàn dây tơ, dây kim và sáo, không có bộ gõ như trong hát bội. Có tám loại nhạc cụ thường dùng trong sân khấu cải lương như: đàn kìm (đàn nguyệt cầm), đàn tranh, đàn cò, đàn sến, đàn guitar, violon, sáo, cuỗn. Nhìn chung, thành tố ca nhạc là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nghệ thuật cải lương. Do cải lương là loại hình ca kịch, nên khi ca người nghệ sĩ phải nắm rõ tất cả những nguyên tắc của bài bản, làn điệu nhằm chuyển tải trọn vẹn tâm tư tình cảm đến khán giả, đồng thời gây hiệu ứng xúc cảm nơi khán giả.
Phục trang và hóa trang là hai thành tố cơ bản, có sự gắn kết chặt chẽ trong việc tạo dựng diện mạo của người diễn viên trên sân khấu cải lương. So với hát bội, phục trang trên sân khấu cải lương không mang nặng tính nguyên tắc của một sân khấu ước lệ. Sân khấu cải lương thiên về tả thực, vì thế phương thức vận dụng phục trang, hóa trang trong biểu diễn nhằm khơi gợi, tái hiện trước mắt khán giả những con người thật bằng xương bằng thịt, rất đỗi gần gũi với khán giả. Trang phục của người nghệ sĩ trên sân khấu cải lương đòi hỏi phải nắm nguyên tắc “hợp cảnh hợp tình”. Điều đó có nghĩa, tùy thể loại cải lương (tuồng Tàu hay tuồng Tây), tùy hoàn cảnh, vị thế của nhân vật mà diễn viên ăn mặc phù hợp.
Về diện mạo bên ngoài, người diễn viên không chỉ ăn mặc theo đúng nội dung vở diễn, mà còn chú ý đến cách hóa trang cho phù hợp với tích cách và hoàn cảnh của nhân vật. Nghệ thuật hóa trang của diễn viên hát bội mang tính tượng trưng ước lệ. Diễn viên cải lương không đi theo lối hóa trang theo kiểu mô thức của hát bội, tiết chế sự tô vẽ màu sắc. Cách hóa trang của cải lương thiên về nghệ thuật tả thực. Người diễn viên bộc lộ cảm xúc, thân phận bằng gương mặt thật, tạo độ sáng trên sân khấu trình diễn bằng sự uy nghi, diễm lệ. Cách hóa trang của sân khấu cải lương phá vỡ thủ pháp cách thức hóa và cường điệu hóa của hát bội, nhằm hướng đến sự chân thật, gần gũi của nhân vật.
Diễn viên cải lương thường thể hiện tính biểu cảm trong tính cách, dung mạo và điệu bộ. Tài năng của người diễn viên được đánh giá bằng sức thu hút khác giả. Thông thường, những diễn viên được đánh giá là tài năng, chính là những người thông qua hình tượng nhân vật sân khấu để lấy nước mắt của khán giả. Cũng như trong quá trình biểu diễn, người diễn viên ứng tác thường để góp phần tăng hiệu quả của màn diễn, vở diễn. Khi nói đến người diễn viên cải lương, dường như cần phải hội đủ bốn yếu tố “thanh, sắc, tài, duyên”. “Thanh sắc” được hiểu với hàm nghĩa giọng hay, người đẹp; “tài duyên” mang ý nghĩa diễn xuất phải có điệu bộ màu mè, có tấn kịch, thu hút được khán giả. cải lương thiên về tả thực nên sân khấu là sự tái hiện cảnh thật, thiết kế sân khấu của cải lương mô phỏng theo sân khấu phương Tây, có phân màn, phân hồi. Mỗi màn đều có tranh cảnh vẽ không gian kịch.
Nghệ thuật cải lương là loại hình sân khấu tổng hợp, trên nền tảng kịch giữ vị trí trung tâm có tính chủ đạo là sự đồng vận hành của các thành tố nghệ thuật khác như ca nhạc, phục trang, hóa trang, thiết kế sân khấu và đạo cụ. Tất cả đều có vai trò nhất định, đồng tạo hiệu quả nghệ thuật và thẩm mỹ trong thời gian trình diễn. Đến với sân khấu cải lương, khán giả xem diễn, nghe hát và vận dụng những kiến thức âm nhạc – văn hóa – xã hội, kết hợp với xúc cảm của bản thân để đưa ra sự hưởng ứng, tán thưởng. Vở cải lương khi trình diễn, thông thường kết thúc bài vọng cổ mùi mẫn của diễn viên là những tràn vỗ tay của khán giả từ phía khán đài. Cũng chính khán giả tạo sự khích lệ cho việc ứng tác của diễn viên trong quá trình biểu diễn. Có thể nói, trong quá trình tạo hiệu quả cảm xúc, thẩm mỹ sân khấu, khán giả mang vị trí gần cân bằng với tác giả và diễn viên.
Cải lương là loại hình ca kịch sân khấu truyền thống, sản phẩm văn hóa nghệ thuật hình thành và phát triển trên mảnh đất Nam Bộ. Buổi đầu, cải lương ra đời dần thay thế vị trí của Hát bội trên sân khấu Nam Bộ. Từ khi ra đời đến nay, nghệ thuật cải lương trải qua chặng đường gần một trăm năm gắn bó với công chúng Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung. Trong quá khứ, cải lương từng chiếm giữ vị trí độc tôn, được công chúng yêu thích. Tuy nhiên, hơn hai mươi năm qua, cải lương đã và đang đối diện với sức ép cạnh tranh từ nhiều loại hình nghệ thuật, giải trí mới xuất hiện, lượng khán giả cải lương ngày càng thu hẹp. Dù vậy, vị trí và sự thừa nhận loại hình này trong lòng công chúng chưa bao giờ bị đứt gãy. cải lương vẫn luôn là loại hình sân khấu đặc sắc của Nam Bộ, là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Vùng du lịch là cấp cao nhất trong hệ thống phân vị của phân vùng du lịch Việt Nam. Trong mỗi vùng du lịch có sự kết hợp chặt chẽ về các dạng tài nguyên du lịch, về kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, về các mối liên hệ nội vùng và ngoại vùng để tạo ra các sản phẩm du lịch có bản sắc riêng, có tính chuyên môn hóa cao. Về phạm vi lãnh thổ, vùng du lịch có diện tích lớn, bao gồm nhiều tỉnh và thành phố được quản lý theo các cấp hành chính thống nhất trong cả nước. Trong vùng du lịch có các tiểu vùng du lịch, các trung tâm du lịch, các đô thị du lịch, các khu du lịch và các điểm du lịch.
Yếu tố rất quan trọng của vùng du lịch là có các trung tâm du lịch để thu hút khách du lịch, để phục vụ và đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch. Vùng du lịch cũng rất cần thiết phải có các đầu mối và hệ thống giao thông thuận tiện với các sân bay, nhà ga, bến xe, bến cảng, đường sá và các phương tiện giao thông hiện đại để phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch đến các điểm đến.
Theo "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1996 – 2010” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1995, Việt Nam được chia thành ba vùng du lịch là vùng du lịch Bắc Bộ với sáu tiểu vùng: tiểu vùng du lịch trung tâm, tiểu vùng du lịch duyên hải Đông Bắc, tiểu vùng du lịch miền núi Đông Bắc, tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc, tiểu vùng du lịch Nam Bắc Bộ; vùng du lịch Bắc Trung Bộ có hai tiểu vùng: tiểu vùng du lịch phía Bắc, tiểu vùng du lịch phía Nam; vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ với hai á vùng: á vùng du lịch Nam Trung Bộ với hai tiểu vùng: tiểu vùng du lịch Duyên Hải, tiểu vùng du lịch Tây Nguyên; á vùng du lịch Nam Bộ với hai tiểu vùng: tiểu vùng du lịch Đông Nam Bộ, tiểu vùng du lịch Tây Nam Bộ.
Theo "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22 tháng 1 năm 2013, ở Việt Nam hiện nay có 7 vùng du lịch: